Nhà báo Pháp Giắc-kê Đê-pu-ếch nhận xét “Kỳ tích này là sự vượt trội nhiều lần so với những kỳ tích của tướng Ha-ni-ban thời cổ đại với những voi chiến vượt qua núi An-pơ và của tướng Bô-na-pac thời cận đại mang cả trọng pháo vượt đèo Xanh Béc-nơ, vì nó không chỉ là việc của các viên tướng tài ba mà là do cả một dân tộc tiến hành”.
Còn tướng Mắc-xen Taylơ - nguyên Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ cũng phải cay đắng thừa nhận “Chúng ta đã không đánh giá đúng tinh thần cực kỳ kiên quyết và đức hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của người Việt Nam. Những cố gắng đánh bại đường mòn Hồ Chí Minh đều thất bại”.
Việc Mỹ thừa nhận thất bại trong cuộc chiến tranh ngăn chặn đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn khiến cả thế giới coi đường Trường Sơn như một con đường bất tử. Học giả Đích Van-gây (Mỹ) khẳng định “Đối với đường mòn Hồ Chí Minh, muốn chiếm được nó phải chiếm đóng mỗi mi-li-mét vuông của Lào, Campuchia và cả miền Bắc cũng như miền Nam Việt Nam.
Tất cả quân đội của thế giới này may ra mới đủ. Những quả bom ngoài việc phá hoại môi trường không thể đụng được đến bản chất và ý chí của con người Việt Nam”.
Tàu vận tải Đoàn 125 đang trên đường vận chuyển vũ khí chi viện chiến trường miền Nam, năm 1971. Ảnh: Tư liệu.
Đường Hồ Chí Minh trên biển
Đồng thời với việc tổ chức tuyến chi viện chiến lược - đường Hồ Chí Minh xuyên Trường Sơn, tháng 7/1959 Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị giao cho Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh nghiên cứu mở tuyến vận chuyển chi viện chiến lược trên biển Đông.
Theo sự chỉ đạo đó, Đoàn 759 vận tải chi viện chiến trường bằng đường biển được thành lập. Sau một thời gian nghiên cứu, chuẩn bị, ngày 11/10/1962, chiếc tàu vỏ gỗ đầu tiên chở hơn 30 tấn vũ khí mang mật danh “Phương Đông I” do đồng chí Lê Văn Một làm thuyền trưởng, đồng chí Bông Văn Dĩa làm chính trị viên cùng 13 cán bộ đảng viên rời bến Vạn Sét (Đồ Sơn) lên đường vào Nam bộ.
Sáng ngày 19/10, tàu Phương Đông I vào cửa Bồ Đề và cập bến Vàm Lũng (xóm Rạch Gốc, xã Tân An, huyện Năm Căn, Cà Mau) an toàn. Tuyến chi viện chiến lược - Đường Hồ Chí Minh trên biển chính thức được khai thông. Khu ủy Khu 9 lập tức báo cho Trung ương. Nhận được tin vui, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi ngay điện khen ngợi những người trực tiếp góp công sức lập nên chiến công đầu tiên.
Người chỉ thị: “Hãy nhanh chóng rút kinh nghiệm, tiếp tục vận chuyển nhanh hơn nữa, nhiều hơn nữa vũ khí cho đồng bào miền Nam giết giặc, cho Nam Bắc sớm sum họp một nhà”. Tin vui cũng được đồng chí Phan Hàm, Cục phó Cục tác chiến, Trưởng phòng B, Bộ Tổng tham mưu báo ngay cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi Đại tướng đang chủ trì cuộc họp Quân ủy Trung ương.
Nhận được tin vui, Đại tướng xúc động trào nước mắt khiến các thành viên dự hội nghị không hiểu vì sao. Ít giây sau, ông đứng lên vừa lấy tay vuốt ngực vừa nghẹn ngào báo tin vui. Ông đề nghị hội nghị tạm giải lao liên hoan nhẹ mừng thành công của chuyến đi lịch sử này”. 30 tấn vũ khí lúc đó đối với chiến trường xa nhất là Nam bộ hết sức quý giá, có ý nghĩa rất lớn bởi chính số vũ khí ấy đã giúp cho quân dân ta làm nên các chiến thắng Ấp Bắc, Bình Giã, Đồng Xoài...
Từ chuyến đi thành công của tàu Phương Đông I đến khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tuyến chi viện chiến lược - Đường Hồ Chí Minh trên biển đã vận chuyển hơn 96.000 tấn vũ khí đạn dược và các vật chất khác cùng hơn 17.000 lượt cán bộ chiến sĩ chi viện chiến trường miền Nam. Con số đó tuy không thể sánh với khối lượng vận chuyển của đường Hồ Chí Minh trên bộ, nhưng lại có ý nghĩa và tầm quan trọng rất đặc biệt.
Tuyến chi viện chiến lược trên bộ từ 1959 đến 1972 đặc biệt là từ năm 1959 đến 1965 chủ yếu mới vươn tới được các chiến trường Trị Thiên, Trung - Hạ Lào, Tây Nguyên. Việc chi viện cho các chiến trường Nam bộ, Nam Trung bộ từ 1959 đến 1972 hết sức khó khăn. Tuyến chi viện chiến lược - Đường Hồ Chí Minh trên biển ra đời đã kịp thời đáp ứng được yêu cầu đó.
Chính hiệu quả vận chuyển của tuyến đường này đã tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp trên tất cả các địa bàn chiến lược ở miền Nam. Đặc biệt, sự xuất hiện kịp thời những vũ khí tương đối hiện đại, có tính năng chiến đấu cao đã làm thay đổi cách đánh của quân và dân ta, thay đổi tương quan lực lượng giữa địch và ta.
Thời đó đã từng có những bức điện từ các chiến trường gửi ra Trung ương “Để chúng tôi đánh giặc bằng cùi chỏ à?”. Từ khi được chi viện vũ khí từ miền Bắc, việc hạ máy bay, bắn cháy tàu chiến, xe bọc thép M113, nhổ đồn bốt diễn ra liên tục khiến cho kẻ địch từ chỗ chủ quan, hung hăng ngạo mạn thành khiếp sợ, né tránh, chùn bước.
Ngoài cung cấp vũ khí và các vật chất khác cho các chiến trường xa, tuyến chi viện chiến lược trên biển có ưu thế hơn đường bộ là thời gian nhanh hơn, kịp thời hơn, vũ khí trang bị đồng bộ hơn do không bị nhầm lẫn, thất lạc.
Đường Hồ Chí Minh trên biển đạt hiệu quả rất cao. Đặc biệt trong giai đoạn từ tháng 10/1962 đến tháng 2/1965, với 88 chuyến tàu (mỗi tàu có từ 10 đến 20 cán bộ chiến sĩ), tỷ lệ đến đích đạt 93% (trong khi tỷ lệ cấp trên cho phép là 50%), tuyến chi viện chiến lược trên biển đưa tới các chiến trường được 4.919,636 tấn vũ khí và các mặt hàng thiết yếu.
Khối lượng đó nếu là gạo, dùng người gùi thồ, mỗi người trung bình gùi 25kg thì phải huy động tới 20 vạn người đi liên tục trong 6 tháng. Mỗi người sử dụng 21kg gạo mỗi tháng thì phải cần tới 25 vạn tấn (gấp 50 lần lượng hàng được đưa tới đích), chưa tính các nhu yếu phẩm khác, cũng chưa tính tổn thất dọc đường.
Trong khuôn khổ của một bài báo, thật khó có thể giới thiệu đầy đủ những thành tích, những chiến công của hai tuyến chi viện chiến lược. Nhưng có lẽ cũng đủ khẳng định: Đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn và đường Hồ Chí Minh trên biển là một kỳ công chiến lược của dân tộc ta trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Nguồn Báo Tiền Phong